Tìm hiểu về Ngày thành lập Đảng Cộng sản
Việt Nam 03/02/1930
Từ ngày 3 đến 7-2-1930, tại Cửu Long (Hương Cảng, Trung Quốc),
dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Ái Quốc, Hội nghị hợp nhất ba tổ chức Cộng
sản ở Việt Nam là Đông Dương Cộng sản Đảng, An Nam Cộng sản Đảng, Đông Dương
Cộng sản Liên đoàn, thành một đảng duy nhất là Đảng Cộng sản Việt Nam, với mục
tiêu lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam tiến hành giải phóng dân tộc, giải
phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người tiến lên chủ nghĩa xã
hội.
Sự thống trị tàn bạo của thực dân Pháp
đã làm cho mâu thuẫn dân tộc diễn ra hết sức gay gắt, hàng loạt phong trào yêu
nước theo các khuynh hướng khác nhau liên tiếp nổ ra nhằm giải quyết mâu thuẫn
chủ yếu đó. Tiêu biểu là phong trào Cần Vương do vua Hàm Nghi và Tôn Thất
Thuyết khởi xướng; phong trào Đông Du của Phan Bội Châu; phong trào cải cách
của Phan Chu Trinh, khởi nghĩa Yên Thế do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo... Các cuộc
đấu tranh giải phóng dân tộc tuy diễn ra quyết liệt, song cuối cùng đều bị thất
bại, vì thiếu một đường lối cứu nước đúng đắn, thiếu một tổ chức lãnh đạo có
khả năng tập hợp sức mạnh của toàn dân tộc.
Trong bối cảnh đó, tháng 6-1911, người
thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã rời Tổ quốc ra đi tìm con đường cứu
nước giải phóng dân tộc. Năm 1920 Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc đã đến với
chủ nghĩa Mác - Lênin; đây không chỉ là bước ngoặt đối với cuộc đời hoạt động
cách mạng của Nguyễn Ái Quốc, mà còn là bước ngoặt của cách mạng Việt Nam. Lý
luận của chủ nghĩa Mác - Lênin đã soi rọi cho Nguyễn Ái Quốc: Muốn cứu nước và
giải phóng dân tộc thì trước hết phải có “Đảng cách mệnh” để “trong thì vận
động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản
giai cấp mọi nơi”. Từ nhận thức đó Nguyễn Ái Quốc ra sức chuẩn bị mọi mặt cho
việc thành lập một chính đảng vô sản ở Việt Nam, Người từng bước truyền bá có
hệ thống chủ nghĩa Mác - Lênin vào trong nước, đưa phong trào công nhân chuyển
dần từ trình độ tự phát lên tự giác; đưa phong trào yêu nước chuyển dần sang
lập trường cộng sản.
Tháng 3-1929, Chi bộ Cộng sản đầu tiên
được thành lập ở số nhà 5D, Hàm Long, Hà Nội, gồm có Trần Văn Cung, Trịnh Đình
Cửu, Ngô Gia Tự, Nguyễn Đức Cảnh, Đỗ Ngọc Du, Nguyễn Phong Sắc, Nguyễn Văn Tuân
và Dương Hạc Đính.
Ngày 1-5-1929, tại Đại hội toàn quốc
của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên ở Hương Cảng (Trung Quốc), đoàn đại biểu
Bắc Kỳ đưa ra đề nghị thành lập Đảng Cộng sản. Đề nghị đó không được chấp nhận.
Trở về nước, ngày 17-6-1929, những đảng viên trong Chi bộ Cộng sản 5D Hàm Long
đã tuyên bố thành lập Đông Dương Cộng sản Đảng. Ngày 25-7-1929, An Nam Cộng sản
Đảng được thành lập ở Nam Kỳ. Tháng 9-1929 Đông Dương Cộng sản Liên đoàn được
thành lập ở Trung Kỳ.
Chỉ trong một thời gian ngắn ở Việt
Nam đã có ba tổ chức cộng sản được tuyên bố thành lập. Điều đó phản ánh xu thế
tất yếu của phong trào đấu tranh cách mạng ở Việt Nam. Song sự tồn tại của ba
tổ chức cộng sản hoạt động biệt lập trong một quốc gia có nguy cơ dẫn đến chia
rẽ lớn. Yêu cầu bức thiết của cách mạng là cần có một Đảng thống nhất lãnh đạo.
Nguyễn Ái Quốc, người chiến sĩ cách mạng lỗi lạc của dân tộc Việt Nam, người
duy nhất có đủ năng lực và uy tín đáp ứng yêu cầu đó của lịch sử: thống nhất
các tổ chức cộng sản thành Đảng Cộng sản duy nhất ở Việt Nam.
Từ ngày 3 đến 7-2-1930, Hội nghị
hợp nhất ba tổ chức Cộng sản họp tại Cửu Long (Hương Cảng, Trung Quốc) dưới sự
chủ trì của đồng chí Nguyễn Ái Quốc. Tham gia Hội nghị có các đồng chí Trịnh
Đình Cửu, Nguyễn Đức Cảnh (đại biểu Đông Dương Cộng sản Đảng); Nguyễn Thiệu,
Châu Văn Liêm (đại biểu An Nam Cộng sản Đảng). Đại biểu Đông Dương Cộng sản
Liên đoàn không đến kịp. Hội nghị nhất trí thành lập đảng thống nhất, lấy tên
là Đảng Cộng sản Việt Nam, thông qua Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt,
Chương trình tóm tắt và Điều lệ vắn tắt của Đảng. Ngày 3 tháng 2 năm 1930 trở
thành Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản
Việt Nam mang tầm vóc lịch sử như là Đại hội thành lập Đảng. Đảng Cộng sản Việt
Nam được thành lập là kết quả của cuộc đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc
ở nước ta trong những năm đầu thế kỷ XX; là sản phẩm cuả sự kết hợp chủ nghĩa
Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước; là kết quả của quá
trình lựa chọn, sàng lọc nghiêm khắc của lịch sử và là kết quả của quá trình
chuẩn bị đầy đủ về chính trị, tư tưởng và tổ chức của một tập thể chiến sĩ cách
mạng, đứng đầu là đồng chí Nguyễn Ái Quốc.
Đó là một mốc lớn đánh dấu bước ngoặt
trọng đại trong lịch sử cách mạng Việt Nam, chấm dứt cuộc khủng hoảng về đường
lối cứu nước kéo dài mấy chục năm. Trong Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt
do đồng chí Nguyễn Ái Quốc khởi thảo, được Hội nghị thành lập Đảng thông qua đã
xác định cách mạng Việt Nam phải tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc tiến
lên chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là con đường cách
mạng duy nhất đúng để thực hiện mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng giai
cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam
với Cương lĩnh, đường lối cách mạng đúng đắn chứng tỏ giai cấp công nhân Việt
Nam đã trưởng thành, đủ sức lãnh đạo cách mạng.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam
gắn liền với tên tuổi của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, người sáng lập và rèn
luyện Đảng ta./.
Theo Lịch sử biên niên Đảng Cộng sản Việt
Nam, tập 2 (1930 – 1945)